✨Hồ Hán Thương

Hồ Hán Thương

Hồ Hán Thương (chữ Hán: 胡漢蒼, 1383 – 1407), Minh thực lục và Minh sử ghi Hồ Đê (胡), là hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Hồ, từ năm 1401 đến khi bị nhà Minh đánh bại vào năm 1407. Ông bị giải về Kim Lăng (Trung Quốc) rồi bị giết.

Thân thế

Hồ Hán Thương, không rõ sinh năm nào, tên cũ là Hỏa (火), là con thứ của Hồ Quý Ly, mẹ là Huy Ninh công chúa Trần thị, con gái của Trần Minh Tông. Công chúa vốn lấy một người tông thất là Trần Nhân Vinh, nhưng Nhân Vinh qua đời sớm, anh của công chúa là Trần Nghệ Tông muốn thắt chặt quan hệ với Quý Ly nên bắt em gái gả cho Quý Ly, sinh ra Hán Thương và một con gái nữa là Hồ Thánh Ngâu.

Những năm Hồ Quý Ly chuyên quyền nhà Trần, Hán Thương được nhậm chức Thái phó.

Năm 1400, Hồ Quý Ly phế cháu ngoại là Trần Thiếu Đế để tự lập, sinh ra nhà Hồ. Do e ngại nhiều thế lực còn chống đối, vào năm sau (1401), Hán Thương được phụ hoàng chính thức truyền ngôi. Bản thân Quý Ly trở thành Thái thượng hoàng và vẫn nắm quyền quyết định mọi việc.

Hồ Hán Thương được Quý Ly rất yêu và từ lâu đã có ý định truyền ngôi, nhưng trên Hán Thương còn có người anh khác mẹ là Hồ Nguyên Trừng. Chính Hồ Quý Ly e ngại con trưởng Hồ Nguyên Trừng không bằng lòng, sẽ gây ra bất hòa trong nội bộ chính quyền vẫn còn rất yếu của mình. Tuy nhiên Hồ Nguyên Trừng khẳng khái tỏ lòng mình không tranh giành với em, do đó Hồ Quý Ly quyết định truyền ngôi cho Hồ Hán Thương. Ngoài ra, Hồ Hán Thương có mẹ là một công chúa nhà Trần nên sẽ thuận lợi về chính danh khi lên ngôi hơn Hồ Nguyên Trừng.

Hoàng đế

Đánh Chiêm Thành

Trong thời gian ở ngôi, Hồ Hán Thương đã 2 lần đánh Chiêm Thành. Lần đầu năm 1402, quân Đại Ngu thắng lợi, khiến vua Chiêm phải dâng Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi hiện nay). Nhà Hồ chiếm được đất ấy đặt ra 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.

Năm 1403, Hồ Hán Thương lại sai Phạm Nguyên Khôi đi đánh Chiêm. Quân Đại Ngu vây kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành trong 9 tháng không hạ được, bị hết lương phải rút về.

Lãnh thổ Đại Ngu dưới thời Hồ Hán Thương được mở rộng về phía Nam (đến bắc Quảng Ngãi hiện nay).

Cuộc xâm lược của nhà Minh

Năm 1403, phái đoàn sứ giả của Hồ Hán Thương cử sang nhà Minh xin thụ phong, lấy cớ nhà Trần đã tuyệt tự, Hán Thương là con của một nữ tộc họ Trần được nhân dân tôn kính và xin thay thế nhận phong. Nhà Minh bèn sai sứ sang điều tra thực hư. Tháng 5, sứ nhà Minh là Dương Bột (Yang Bo) được cử sang An Nam điều tra. Tháng 12 cùng năm, sứ đoàn trở về Trung Quốc và báo cáo việc trên đúng như Hán Thương nói. Nhà Minh khi đó mới quyết định gia phong Hán Thương làm An Nam quốc vương.

Tháng 10 năm 1404, Trần Khang, một gia nô của Trần Tông - người bị nhà Trần trị tội theo Chiêm Thành - đổi tên là Thiêm Bình, trốn sang Trung Quốc tự xưng là con cháu nhà Trần và xin viện binh đánh nhà Hồ.

Năm 1404, nhà Minh sai Lý Ỷ sang hỏi nhà Hồ về việc Trần Thiêm Bình. Sau khi Lý Ỷ về, Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân dâng biểu tạ tội và xin rước Trần Thiêm Bình về nước và tôn làm Chúa. Minh Thành Tổ hứa phong cho Hán Thương một quận lớn nếu chịu quy phục. Biết nguy cơ xâm lược của nhà Minh, Hồ Hán Thương cùng Thượng hoàng Hồ Quý Ly ra sức chuẩn bị. Ông động viên thêm quân, xây thành Đa Bang, phòng thủ các cửa sông.

Năm 1406, nhà Minh sai Hoàng Trung mang quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Hồ Hán Thương điều binh đón đánh. Quân Đại Ngu đánh bại quân Minh khiến Hoàng Trung phải giao nộp Thiêm Bình mới rút được về nước.

Cuối năm 1406, Minh Thành Tổ lại sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh Đại Ngu. Lấy danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ", nhà Minh viết bảng văn kể tội họ Hồ để phân hóa người Việt trong tình hình đất nước rối ren do sự suy sụp của nhà Trần. Các chính sách cải cách do Thượng hoàng Quý Ly khởi xướng vốn không được nhân dân ủng hộ, thêm vào đó là sự chống đối của tàn dư con cháu họ Trần vốn cũng là cùng dòng họ với Hồ Quý Ly nên đất nước bị chia rẽ từ bên trong và không có nhiều người tài tận lực vì nhà Hồ đánh quân Minh. Thêm vào đó cũng phải nói đến nhãn quan chính trị của Hồ Quý Ly đã không tăng cường tuyên truyền và làm cho nhân dân rõ bản chất của quân Minh và tàn dư của nhà Trần. Chính vì vậy, khi đánh nhau quân nhà Hồ liên tiếp bị thua các trận Mộc Hoàn và mất thành Đa Bang.

Tháng 2 năm 1407, Hồ Hán Thương cùng Thượng hoàng Quý Ly phải lui về Tây Đô. Tháng 3, Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng tập hợp lại lực lượng và sai người đón Hồ Hán Thương cùng Hồ Quý Ly ra Bắc cự địch. Hai bên đụng độ ở Hàm Tử. Quân nhà Hồ bị phục binh của quân Minh, bị thua nặng. Hồ Hán Thương cùng cha lại phải chạy vào Tây Đô (Thanh Hóa).

Ngày 23 tháng 4, quân Minh đánh vào Lỗi Giang, quân nhà Hồ không đánh mà tan. Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh, thủy quân nhà Hồ tự tan vỡ. Hồ Hán Thương cùng cha định lánh đến Thâm Giang nhưng không thành, phải bỏ chạy vào Tân Bình. Cha con lạc nhau, Hồ Hán Thương mang Thái tử Hồ Nhuế chạy vào núi Cao Vọng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).

Ngày 11 tháng 5, quân Minh đánh vào Vĩnh Ninh. Tướng Minh là Vương Sài Hồ bắt được Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy; Lý Bân bắt được Hồ Nguyên Trừng ở cửa biển Kỳ La. Ngày 12 tháng 5, bộ tướng của Mạc Thúy - hàng tướng người Việt - là Nguyễn Như Khanh bắt được Hồ Hán Thương và Thái tử Hồ Nhuế ở núi Cao Vọng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).

Kết cục

Người Minh thống kê những thứ đã thu được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền.

Sau đó, Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc thiêm sự Liễu Thăng; Hoành hải tướng quân Lỗ Lân; Thần cơ tướng quân Trương Thăng, Đô chỉ huy sứ Du Nhượng; Chỉ huy đồng tri Lương Định; Chỉ huy thiêm sự Thân Chí bắt giải Quý Ly và các con là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp, Đình Hoảng; các tướng thần là Đông Sơn hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tướng quân là Huyện bá Đoàn Bổng, Đình bá Trần Thang Mông, Trung lang tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín đến Kim Lăng để dâng.

Khi đó, vua Minh hỏi rằng: "Đại Minh như vậy, sao không sợ phục mà dám láo xược chống cự?" Đều trả lời là không biết. Vua Minh lại nói: "Từng sai sứ giả sang bảo, không phải là không biết".

Nhà Minh vờ cho Vương Nhữ Tương, Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải làm Kinh Bắc thị lang và tham chính ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông, sai người đưa đi, đến nửa đường thì giết. Nhà chính trị Hồ Hán Dân thời Trung Hoa Dân Quốc nhận mình là dòng dõi của Hồ Hán Thương.

Riêng gia đình họ Hồ, theo Minh thực lục ghi lại đều được tha tội. Con cả Quý Ly và là anh của Hán Thương là Hồ Nguyên Trừng có tài được thu dụng, còn cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị đày ra Quảng Tây.

Nhận định

Trong sách Đại Việt thông giám tổng luận, soạn năm 1514, sử thần Lê Tung đứng trên quan điểm Tân Nho giáo thời Hậu Lê coi Hồ Hán Thương là người "nối ngôi thoán đoạt, bạo chính hại dân".

👁️ 77 | ⌚2025-09-16 22:26:41.972

QC Shopee
**Hồ Hán Thương** (chữ Hán: 胡漢蒼, 1383 – 1407), Minh thực lục và Minh sử ghi **Hồ Đê** (胡), là hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Hồ, từ năm 1401
**Hồ Hán Thương** (chữ Hán: 胡漢蒼, 1383 – 1407), Minh thực lục và Minh sử ghi **Hồ Đê** (胡), là hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Hồ, từ năm 1401
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Hán Thương Đế** (chữ Hán: 漢殤帝; 105 - 106), tên thật là **Lưu Long** (劉隆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 20 của nhà Hán trong
**Hán Thương Đế** (chữ Hán: 漢殤帝; 105 - 106), tên thật là **Lưu Long** (劉隆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 20 của nhà Hán trong
[[Viện trưởng Lập pháp viện Trung Hoa Dân Quốc ]] **Hồ Hán Dân** (; sinh tại Phiên Ngung, Quảng Đông, Trung Hoa, vào ngày 9 tháng 12 năm 1879; mất tại Quảng Đông, Trung Hoa
[[Viện trưởng Lập pháp viện Trung Hoa Dân Quốc ]] **Hồ Hán Dân** (; sinh tại Phiên Ngung, Quảng Đông, Trung Hoa, vào ngày 9 tháng 12 năm 1879; mất tại Quảng Đông, Trung Hoa
[[Viện trưởng Lập pháp viện Trung Hoa Dân Quốc ]] **Hồ Hán Dân** (; sinh tại Phiên Ngung, Quảng Đông, Trung Hoa, vào ngày 9 tháng 12 năm 1879; mất tại Quảng Đông, Trung Hoa
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Hàn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này khá phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 韓, Bính âm: Han), nó đứng thứ 15 trong danh sách _Bách gia
**Hàn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này khá phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 韓, Bính âm: Han), nó đứng thứ 15 trong danh sách _Bách gia
**Người Hồ** (胡人, _Hồ nhân_) theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á, được sử dụng phổ biến trong các sử tịch và văn hiến vào
**Người Hồ** (胡人, _Hồ nhân_) theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á, được sử dụng phổ biến trong các sử tịch và văn hiến vào
Giáo trình tiếng Hán thương mại (bìa mềm)   Hiện nay, trào lưu học tiếng Hán đang lên cao; đây là một thực tế không thể phủ nhận. Cùng với việc gia tăng số học
Giáo trình tiếng Hán thương mại (bìa mềm)   Hiện nay, trào lưu học tiếng Hán đang lên cao; đây là một thực tế không thể phủ nhận. Cùng với việc gia tăng số học
**Hồ** (chữ Hán: 胡; bính âm: Hú, Hangul: 호; Romaja quốc ngữ: Ho) là họ của người thuộc ở vùng văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Tại Cộng hòa
**Hồ** (chữ Hán: 胡; bính âm: Hú, Hangul: 호; Romaja quốc ngữ: Ho) là họ của người thuộc ở vùng văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Tại Cộng hòa
**Hồ** (chữ Hán: 胡; bính âm: Hú, Hangul: 호; Romaja quốc ngữ: Ho) là họ của người thuộc ở vùng văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Tại Cộng hòa
**Đàn Tế Nam Giao** hay **đàn Nam Giao nhà Hồ** là một di tích thuộc khu di tích thành nhà Hồ, tỉnh Thanh Hóa. Xưa kia đây là nơi hàng năm triều nhà Hồ tiến
**Đàn Tế Nam Giao** hay **đàn Nam Giao nhà Hồ** là một di tích thuộc khu di tích thành nhà Hồ, tỉnh Thanh Hóa. Xưa kia đây là nơi hàng năm triều nhà Hồ tiến
**Giáo dục và khoa cử thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. ## Hệ thống
**Giáo dục và khoa cử thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. ## Hệ thống
**Giáo dục và khoa cử thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. ## Hệ thống
1 lọ flosal D trị hô hấp, thương hàn, tiêu chảy cho chim, vẹt, gà, vịt Sản phẩm này là tài sản cá nhân được bán bởi Nhà Bán Hàng Cá Nhân và không thuộc
**Đô hộ phủ** (chữ Hán: 都護府) là các cơ quan quản lý các khu vực biên giới của một số triều đại phong kiến ở Trung Quốc. Nhà Đinh và nhà Trần ở An Nam
**Đô hộ phủ** (chữ Hán: 都護府) là các cơ quan quản lý các khu vực biên giới của một số triều đại phong kiến ở Trung Quốc. Nhà Đinh và nhà Trần ở An Nam
là một chức quan trong các triều đình phong kiến Trung Quốc, đứng đầu Hộ bộ. Còn từng được gọi là "Tư đồ", "Tư nông", "Dân tào", "Địa quan". ## Lịch sử Thời Hán, triều
là một chức quan trong các triều đình phong kiến Trung Quốc, đứng đầu Hộ bộ. Còn từng được gọi là "Tư đồ", "Tư nông", "Dân tào", "Địa quan". ## Lịch sử Thời Hán, triều
**Kinh tế Việt Nam thời Hồ** phản ánh những chính sách và hoạt động kinh tế Việt Nam vào thời nhà Hồ từ năm 1400 đến năm 1407. ## Nông nghiệp Từ cuối triều Trần,
**Kinh tế Việt Nam thời Hồ** phản ánh những chính sách và hoạt động kinh tế Việt Nam vào thời nhà Hồ từ năm 1400 đến năm 1407. ## Nông nghiệp Từ cuối triều Trần,
**Kinh tế Việt Nam thời Hồ** phản ánh những chính sách và hoạt động kinh tế Việt Nam vào thời nhà Hồ từ năm 1400 đến năm 1407. ## Nông nghiệp Từ cuối triều Trần,
**Tiền tệ Việt Nam thời Hồ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Hồ (1400-1407) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
**Tiền tệ Việt Nam thời Hồ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Hồ (1400-1407) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
**Tiền tệ Việt Nam thời Hồ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Hồ (1400-1407) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ