✨Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc
Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
Chính quyền trung ương
nhỏ|phải|Nước [[Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchina), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois), và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).]] Sau các Hòa ước Harmant và Patrenôtre, nhà Nguyễn chỉ còn cai quản Trung Kỳ, Bắc Kỳ với chế độ bảo hộ dưới sự giám sát của người Pháp. Về hình thức, bộ máy triều đình Huế không thay đổi nhưng về bản chất họ chỉ là những viên chức hoạt động dưới sự lãnh đạo của người Pháp. Thỉnh thoảng họ được mở hội nghị Cơ mật viện hoặc Hội đồng thượng thư do Khâm sứ Trung kỳ chủ tọa làm tư vấn lấy lệ.
Tòa Khâm sứ Pháp có một hệ thống tổ chức hiện đại chỉ huy mọi ngành:
- Cơ quan quốc khố (Service des Trésor) gồm các ngân hàng (banque) và kho bạc (Commis des Trésor)
- Tòa án (Palais des Jutice) gồm Tham biện, Thừa biện và Sở lục bộ
- Thuế vụ (Servive des Impôts et de Droits)
- Y tế (Service des Santé)
- Thương mại (Service du Commerce) Những cơ quan lớn thì có các Sở phụ trách, còn cơ quan nhỏ thì nằm trong Khâm sứ bộ, coi như một phòng, có Trưởng phòng phụ trách.
Trong tòa Khâm sứ có nhiều viên Khâm sứ làm Phó (Résidence), một số người Việt được tuyển dụng vào làm Thư lại gọi là Thư ký tòa sứ (Secretaire Résidence) hoặc Chủ sự (Commis). Các Bộ của triều đình nhà Nguyễn (gọi là Nam triều) đều dưới quyền chỉ huy của các Sở hoặc phòng của Khâm sứ bộ dưới danh nghĩa "phối thuộc" hay "hội đồng".
Đầu năm 1933, Pháp giao việc học sơ cấp cho nhà Nguyễn, nên lập thêm Bộ Quốc gia Giáo dục, do Phạm Quỳnh làm Thượng thư.
Chính quyền tam Kỳ
nhỏ|phải|Nước [[Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchina), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois), và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).]]
Bắc Kỳ - Trung Kỳ
Năm 1867, người Pháp thiết lập chính quyền bảo hộ tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tại thời điểm này Pháp bổ nhiệm chức Đại biện đóng tại Huế, phái viên ngoại giao do Chính phủ Pháp đặt ra, được xếp bậc ngang với Thượng thư triều đình nhà Nguyễn (điều 20, Hiệp ước năm 1874).
Năm 1883, Chính phủ Pháp đặt chức Tổng ủy viên Cộng hòa Pháp là người đại điện Chính quyền Pháp tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, đóng tại Bắc Kỳ.
Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra Cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với Chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của Triều đình Huế. Vì vậy, ngày 16 tháng 10 năm 1898, Khâm sứ Trung Kỳ là Léon Jules Pol Boulloche (1898 - 1900) đề nghị Cơ mật Viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung Kỳ. Năm 1898, khi vương quốc Sedang bị giải tán thì ngay năm sau (tức 1899), thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ ngày 16 Tháng 10:
- Năm 1889 chia tỉnh Gia Định thành 4 tỉnh mới: Gia Định (Sài Gòn), Chợ Lớn, Tân An (phần nhỏ phía đông bắc Vàm Cỏ Tây), Tây Ninh và cắt một phần đất lớn của tỉnh này (nằm giữa thượng nguồn Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây là Xoài Tiếp (Kvay Teep)) về cho Cao Miên lập thành tỉnh Svay Rieng.
- Năm 1889 chia tỉnh Biên Hòa thành 3 tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một
- Năm 1889 chia tỉnh Định Tường thành toàn bộ hay phần lớn 3 tỉnh mới: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An (phần lớn phía tây Vàm Cỏ Tây). Và chia thành các phần nhỏ vào các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đec, Vĩnh Long.
- Năm 1889 chia tỉnh Vĩnh Long thành 3 tỉnh mới: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, một phần Cần Thơ (Trà Ôn).
- Năm 1889 chia tỉnh An Giang thành 5 tỉnh mới: Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ (Trà Ôn), Sa Đéc, Sóc Trăng. Cắt phần đất phía bắc kênh Vĩnh Tế (nguyên là đất Hà Âm trả về cho Campuchia (huyện Kiri Vong).
- Năm 1889 chia tỉnh Hà Tiên thành 3 tỉnh mới: Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu. Cắt một phần đất phía bắc trả về cho Campuchia (Banteay Meas (Sài Mạt), Kampong Trach).
- Năm 1890 tách một phần tỉnh Hà Nội thành lập tỉnh Hà Nam
- Năm 1890 tách một phần tỉnh Nam Định để thành lập tỉnh Thái Bình.
- Năm 1895 tách một phần tỉnh Bắc Ninh thành lập tỉnh Bắc Giang
- Năm 1898 tách một phần tỉnh Hải Dương thành lập tỉnh Kiến An
- Năm 1899 tách một phần tỉnh Sơn Tây thành lập tỉnh Vĩnh Yên
- Năm 1905 lại tách một phần tỉnh Sơn Tây và một phần tỉnh Bắc Ninh thành lập tỉnh Phúc Yên
- Năm 1900 tách một phần tỉnh Thái Nguyên thành lập tỉnh Bắc Kạn
- Thời Thành Thái tách một phần tỉnh Quảng Yên thành lập tỉnh Hải Ninh
- Năm 1899 tách một phần tỉnh Bình Thuận thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng. Năm 1903 bãi bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng.
- Ngày 6 tháng 1 năm 1916: thành lập tỉnh Lâm Viên, gồm Đà Lạt và Di Linh, tách từ tỉnh Bình Thuận. Ngày 31 tháng 10 năm 1920 xóa bỏ tỉnh Lâm Viên, một phần lập ra thành phố Đà Lạt, phần còn lại lập lại tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh.
- Ngày 8 tháng 1 năm 1941, lập lại tỉnh Lâm Viên, tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt.
Như vậy từ 31 tỉnh thời Nguyễn độc lập, người Pháp tách và đặt thêm 26 tỉnh nữa trong thời gian cai trị Việt Nam là Hà Nam, Chợ Lớn, Tân An, Tây Ninh, Thái Bình, Bắc Giang, Kiến An, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Kạn, Hải Ninh, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Bến Tre, Trà Vinh, Châu Đốc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Long Xuyên, Bạc Liêu. Tính tổng số Việt Nam thời Pháp thuộc có 55 tỉnh:
nhỏ|Bản đồ hành chính Liên bang Đông Dương năm 1937 Tại mỗi tỉnh, người Pháp đặt chức Công sứ, Phó Công sứ chỉ huy và có nhiều ngành dọc của Pháp. Bộ máy cai trị của nhà Nguyễn tại các tỉnh vẫn được duy trì trên danh nghĩa nhưng không có quyền hạn thực tế Dù vậy khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối. Cuộc tranh chấp này kéo dài cho đến khi người Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc.
