✨Nông nghiệp Tajikistan
phải|Một máy kéo Belarus ở Tajikistan Tajikistan là một đất nước có tỉ trọng nông nghiệp cao, với hơn 70% dân số ở nông thôn và nông nghiệp chiếm 60% việc làm và khoảng 30% GDP. Tajikistan có thu nhập bình quân đầu người thấp: trong thời Xô Viết (1990) Tajikistan là nước cộng hòa nghèo nhất với 45% dân số sống trong thu nhập thấp nhất (Uzbekistan là nước nghèo nhất tiếp theo trong bảng xếp hạng của Liên Xô, có 20% dân số trong nhóm thu nhập thấp nhất). Năm 2006 Tajikistan vẫn có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất trong số các nước thuộc Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS): 1.410 đô la (tương đương sức mua tương đương PPP) so với gần 12.000 đô la với Nga. Thu nhập thấp và tiểu sử tỉ trọng nông nghiệp cao đã chứng minh và thúc đẩy những nỗ lực cải cách nông nghiệp từ năm 1991 với hy vọng cải thiện đời sống của người dân.
Sản xuất nông nghiệp
Sau nhiều thập kỷ tăng trưởng nông nghiệp ổn định trong thời kỳ Xô Viết, với khối lượng sản lượng nông nghiệp gấp ba lần giữa năm 1960 và 1988, Tajikistan độc lập, tương tự như hầu hết các nước trong CIS, đã trải qua một sự suy giảm tuột dốc trong thời kỳ quá độ như là chỉ số tổng sản lượng nông nghiệp (GAO) giảm 55 % giữa 1991 và 1997. Sản xuất nông nghiệp đã cho thấy sự phục hồi đáng kể từ năm 1997 và hiện nay GAO gần như trở lại mức 1991 sau khi tăng hơn gấp đôi so với mức thấp nhất vào năm 1997. Sợi bông là hàng hóa xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu của Tajikistan, đóng góp 16% tổng kim ngạch xuất khẩu (đứng thứ hai sau nhôm, chiếm tới 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước).
Thay đổi cấu trúc trang trại
Cho đến năm 1991, nông nghiệp ở Tajikistan (sau đó là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajikistan), được tổ chức trong một hệ thống kép, trong đó các trang trại tập thể và nhà nước quy mô lớn cùng tồn tại trong một mối quan hệ cộng sinh. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường bắt đầu ở Tajikistan độc lập sau năm 1992 đã dẫn đến việc tạo ra một loại trang trại nông dân cỡ trung mới, được gọi là trang trại dehkan (tiếng Tajik: хоҷагиҳои деҳқонӣ (фермерӣ), tiếng Nga: дехканские (фермерские) хозяйства), giữa các hộ gia đình nhỏ và các doanh nghiệp trang trại lớn. Tính đến năm 2006, khoảng 25.000 trang trại nông dân kiểm soát 60% diện tích đất canh tác, hoặc 530.000 ha (40% còn lại được phân chia đều giữa các hộ gia đình và doanh nghiệp nông nghiệp).
Vào tháng 3 năm 2008, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã thông báo rằng Tajikistan đã rút ra từ năm 2004 đến 2006 hơn 47 triệu đô la Mỹ từ Cơ sở Tăng trưởng và Giảm nghèo dựa trên thông tin không chính xác về nợ chính phủ và dự trữ Ngân hàng Quốc gia. Ngân hàng Quốc gia Tajikistan đã đảm bảo các khoản vay cho ngành bông, do đó làm tăng các nghĩa vụ của chính phủ mà không nói với IMF. IMF đã yêu cầu nước này trả lại số tiền này trong sáu đợt trả góp hàng tháng trong giai đoạn 2008-2009, trong khi thực hiện hành động để cải thiện và tăng cường giám sát dữ liệu được báo cáo cho Quỹ. BBC báo cáo một nguồn IMF mô tả đây là một trong những trường hợp xấu nhất của việc báo cáo sai cho Quỹ.
Vào tháng 11 năm 2011, Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ tăng cường ngành nông nghiệp và giáo dục ở phía bắc tỉnh Sughd, Tajikistan. Dự án được báo cáo thực hiện theo khuôn khổ Hỗ trợ tài trợ của Nhật Bản cho các dự án an ninh con người cơ sở (GGP) với số tiền 113.539 đô la Mỹ.