✨Năm Châu

Năm Châu

Năm Châu (14 tháng 6 năm 1906 – 21 tháng 4 năm 1978), tên thật là Nguyễn Thành Châu, là một diễn viên sân khấu người Việt Nam. Ông vừa là người trình diễn, vừa là soạn giả cải lương. Với tư cách một soạn giả cải lương hàng đầu ở thời của mình, ông đã sáng tác khoảng 50 vở cải lương dài và nhiều vở ngắn, trong đó rất nhiều vở có giá trị nghệ thuật cao.

Tiểu sử

Năm Châu tên thật là Nguyễn Thành Châu, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1906 (cũng có nguồn tài liệu cho rằng ông sinh ngày 9 tháng 1) tại làng Mỹ Tịnh An, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Năm 1922, khi vẫn còn đang theo học tại Trường trung học La San Taberd, ông quyết định tự lập, theo nghiệp sân khấu. Năm 1938, ông gia nhập gánh hát Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho.

Đĩa Beka thu bài Guitare d'Amour hát chung với [[Ái Liên, dàn nhạc Orchestre Francois Nở]] Năm Châu đã đưa vào sáng tác văn hóa đối thoại dễ hiểu được phóng tác theo tiểu thuyết Anh, Pháp nhằm phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương Tây, áp dụng tiến bộ nghệ thuật và kỹ thuật khoa học để làm giàu cho cải lương. Từ nền tảng này, kịch bản cải lương đã bỏ dần những câu văn biền ngẫu, khiến nghệ sĩ lệ thuộc động tác gò bó, trịnh trọng. Cách đối thoại theo thể văn xuôi của ông đã bắt đầu đưa cuộc sống đương đại lên sàn diễn. Năm Châu đã cho ra loạt tuồng phóng tác theo các tiểu thuyết nổi tiếng hoặc kịch kinh điển của văn học Pháp như: Giá trị và danh dự (Le Cid của Pierre Corneille), Túy hoa vương nữ (Marie Tudor của Victor Hugo), Áo người quân tử (L'homme en habit), Miếng thịt người (Le marchand de Venise), Gió ngược chiều (Ruy Blas),... Ở lĩnh vực điện ảnh, ông thực hiện các phim chuyển thể từ các vở cải lương và ông là người đầu tiên thực hiện lĩnh vực chuyển âm, lồng tiếng cho các phim nước ngoài (1950–1960) tại Sài Gòn.

Giáo sư kịch nghệ đầu tiên

Đầu năm 1960, sân khấu cải lương đã có những sự chuyển biến lớn khi xuất hiện của hàng loạt giọng ca vàng khiến thế hệ của ông phải nhường bước cho lớp nghệ sĩ trẻ ca vọng cổ được khán giả ưa chuộng như: Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh, Thanh Sang, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Nga,... đã chiếm lĩnh sân khấu cải lương và các hãng đĩa. Tên ông được đặt cho một con đường tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm

Anh hùng náo Tam môn giai Duyên chị tình em Đoá hoa rừng Nợ dâu Nước biển mưa nguồn Ngọn cờ đầu Ngao sò ốc hến Sân khấu về khuya Phũ phàng Tư sinh tử Thái tử Hàm Lệ Tuý Hoa vương nữ Tây Thi gái nước Việt Vợ và tình *Miếng thịt người

Đời tư

Người vợ đầu tiên của Năm Châu là nghệ sĩ Sáu Trâm, là người Việt gốc Hoa, quê ở Thốt Nốt, Long Xuyên. Nhưng ghen tức vì chồng dạy học cho Phùng Há, bà rời gánh hát Tái Đồng Ban, trở về Long Xuyên và ở với mẹ.

Năm 1928, Năm Châu kết hôn với nghệ sĩ Tư Sạng, khi 2 người đang cùng hoạt động trong gánh hát Tái Đồng Ban, họ sinh được 5 người con là Nguyễn Thành Văn, Nguyễn Ngọc Bê, Nguyễn Trúc Thanh, Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Thanh Trúc. Người con cả Nguyễn Thành Văn là chủ rạp hát bóng Tây Đô tại tỉnh Cần Thơ. Người con thứ 3 là Nguyễn Trúc Thanh tập kết ra Bắc sau năm 1954. Người con thứ 4 là nghệ sĩ cải lương Thanh Hương, nổi tiếng qua bài vọng cổ Cô Bán Đèn Hoa Giấy. Người con út Nguyễn Thanh Trúc là thành viên đoàn Việt Kịch Năm Châu và đoàn cải lương Sài Gòn 1.

Năm 1948, Năm Châu kết hôn với người vợ thứ ba là nghệ sĩ Kim Cúc, con gái lớn của nghệ sĩ Bảy Nhiêu, họ sinh được 6 người con là Nguyễn Thị Xuân Hợi, Nguyễn Thị Nguyệt Thu, Nguyễn Thị Kim Khánh, Nguyễn Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hồng Dung, Nguyễn Thành Long. Người con gái đầu tốt nghiệp piano tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Người con thứ 2 tốt nghiệp violin. Người con thứ 5, Nguyễn Hồng Dung, là một đạo diễn sân khấu.