✨Cerastes cerastes

Cerastes cerastes

Cerastes cerastes, thường được biết đến với tên gọi rắn lục sừng Sahara hay rắn lục sừng sa mạc, là một loài rắn lục bản địa phân tại các sa mạc ở bắc Phi cũng như một số vùng tại Bán đảo Ả Rập và Levant. Loài này có một đặc điểm rất dễ nhận dạng, đó là cặp "sừng" nằm ở ngay trên mắt, mặc dù vẫn xuất hiện một vài cá thể không có sừng.

C. cerastes sở hữu hoa văn khá đa dạng, bao gồm các màu vàng nhạt, xám nhạt, hồng nhạt, đỏ nhạt hoặc nâu nhạt, hầu như luôn trùng màu sắc với môi trường nơi con vật được tìm thấy. Ngoài ra, trên lưng của loài này còn xuất hiện các đốm đen hình bán chữ nhật chạy dọc khắp cơ thể, đồng thời cũng có khả năng những đốm đó hợp nhất lại với nhau tạo thành những vệt ngang. Bụng rắn màu trắng, còn phần đuôi thì thường mỏng và thỉnh thoảng có màu đen ở cuối đuôi.

Tên thường gọi

Tên thường gọi của loài này gồm rắn lục sừng sa mạc uốn khúc, rắn lục sừng Sahara, rắn lục sừng sa mạc châu Phi, cerastes lớn, asp và rắn lục sừng. Ở Ai Cập, người ta gọi loài này là el-ṭorîsha (), trong khi tên gọi của chúng tại Libya là um-Goron ().

Phân bố và môi trường sống

C. cerastes sinh sống phổ biến ở Iraq nhưng cũng được tìm thấy tại Syria, Ả Rập Xê Út, Palestine, Yemen, Jordan, Israel, Qatar, Mauritania, Morocco và Kuwait. Ngoài ra, chúng cũng xuất hiện tại một số vùng của Bắc Phi như Libya, Ai Cập và Sudan. Trước đây, khu vực đầu tiên mà người ta phát hiện loài này chỉ được ghi nhận một cách chung chung là "Orient" (Phía Đông). Tuy nhiên, Flower (1933) sau đó đã đề xuất địa điểm "Ai Cập" để làm rõ vấn đề. Bên cạnh đó, người ta cũng ghi nhận việc chúng săn chuột nhảy, chìa vôi vàng phương Tây cũng như chích Á Âu.

Tập tính sinh sản

Trong điều kiện nuôi nhốt, quá trình giao phối ở C. cerastes được quan sát vào tháng 4 và luôn diễn ra khi con vật vùi mình trong cát. Đây là loài đẻ trứng, trong đó mỗi lần đẻ từ 8 đến 23 quả và sẽ nở sau 50 đến 80 ngày ấp. Chúng thường đẻ trứng dưới đá hoặc trong hang mà các loài gặm nhấm bỏ lại. Chiều dài tổng thể của con non đạt 12–15 cm.

Nọc độc

right|thumb|C. cerastes với cặp sừng trên đầu. Nọc độc của C. cerastes được ghi nhận là có tác dụng tương tự như của các loài thuộc chi Echis. Quá trình nhiễm độc thường gây ra các hiện tượng như nổi phù nề, xuất huyết, hoại tử, buồn nôn, nôn mửa và tiểu ra máu. Hàm lượng phospholipase A2 cao thậm chí có thể dẫn đến nhiễm độc tim và cơ. Các nghiên cứu về C. cerastesC. vipera đều liệt kê tổng cộng tám thành phần nọc độc, trong đó thành phần mạnh nhất có hoạt tính xuất huyết. ngoài ra, liều lượng nọc độc cũng có thể thay đổi, được ghi nhận từ 19–27 mg đến 100 mg đối với độc khô. Với độc tính của nó, Brown (1973) đã nhận định liều lượng là 0,4 mg/kg IV và 3,0 mg/kg SC. Liều gây chết ước tính đối với con người là 40–50 mg.

Phân loại

Một số phân loài đã được mô tả, gồm:

  • Cerastes cerastes hoofieni Werner & Sivan, 1999 – Ả Rập Xê Út.
  • Cerastes cerastes karlhartli Sochurek, 1974 – Rắn lục sừng Ai Cập – đông nam Ai Cập và bán đảo Sinai.
  • Cerastes cerastes mutila Domergue, 1901 – Rắn lục sừng Algeria – tây nam Algeria, Morocco.

Trước đây, C. gasperettii cũng được xem là một phân loài của C. cerastes.

Hình ảnh

Tập tin:Cerastes cerastes 1.jpg Tập tin:Cerastes cerastes and mastomys 01.jpg Tập tin:Cerastes cerastes and mastomys 02.jpg Tập tin:Cerastes cerastes and mastomys 03.jpg